Ở Việt Nam, tục nhuộm răng đen không chỉ có ở người Việt mà còn có ở nhiều dân tộc khác như Thái, Sila, Dao… Và cũng không chỉ riêng Việt Nam, ở Campuchia (Cao Miên xưa), người Mã Lay (Nam đảo), An Độ, Nhật Bản, Nam Trung Hoa cũng có tục này.
Lịch sử của tục nhuộm răng ở Việt Nam vẫn chưa có lời giải đáp thỏa đáng. Theo truyện cổ tích nước ta ghi nhận vào thời nhà Chu, ở Việt Nam đã xuất hiện tục nhuộm răng, theo đó "Người Việt có tục ăn trầu để khử mùi ô uế và nhuộm cho răng đen..." và có liên quan đến hai tập tục khác là ăn trầu và xăm mình. Tuy nhiên, trong Đại Việt Sử ký Toàn thư lại không ghi nhận điều này, mặc dù có đề cập đến tục xăm mình.
Trong Lịch sử Việt Nam (Tập I, NXB KHXH, 1971, trang 48) có ghi: "thời Hùng Vương… người ta nhuộm răng, ăn trầu".
Vào thế kỷ XVIII (1789), trong bài Hịch của Vua Quang Trung có một đoạn nói về tục nhuộm răng như sau:
Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Như vậy, có thể tạm xác định tục nhuộm răng đen đã ra đời từ rất lâu, có thể có từ thời Văn Lang. Trong đó, thông tin đáng tin cậy nhất là khoảng trước thế kỷ XVIII đã có tục này.
Tục nhuộm răng đen trước hết là do quan điểm thẩm mỹ. Trong văn chương, tục nhuộm răng và răng đen của người phụ nữ được ca ngợi tôn vinh như một nét đẹp không thể thiếu được.
"Răng đen ai nhuộm cho mình
Cho duyên mình đẹp, cho tình anh say?" (Ca dao)
Hay:
"Lấy chồng cho đáng tấm chồng,
Bõ công trang điểm má hồng răng đen" (Ca dao)
Và:
"Năm quan mua lấy miệng cười
Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen" (Ca dao)
Trong bài thơ "Bên kia sông Đuống" Hoàng Cầm:
"...Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng..."
Bên cạnh đó là ý thức dân tộc trong việc phân biệt hai nền Văn hóa phương Nam (Việt Nam) và phương Bắc (Trung Quốc). Bài Hịch của Quang Trung là một dẫn chứng về điều này, đã là người dân Việt thì dù nam hay nữ từ 16 đến 17 tuổi đều phải nhuộm răng đen. Người nào để răng trắng thì bị khinh rẻ, miệt thị vì cho là người bất chính mà trong dân gian thường dùng câu: “Răng trắng như răng chó”, “Răng trắng như răng ngô”.
Việc nhuộm răng đen đã trở thành luật, phổ biến trong dân chúng, trừ những đứa trẻ còn răng sữa, ngoài ra đều phải nhuộm đen, không ai có thể cưỡng lại quy luật trên. Nếu phạm luật sẽ bị cộng đồng tẩy chay. Nếu chỉ dựa trên quan điểm thẩm mỹ thì mang tính cá nhân nhưng khi đã thành luật thì nó mang một ý nghĩa khác, mang tính quốc gia dân tộc. Trong bối cảnh này, chinh chiến luôn diễn ra triền miên giữa nước ta và chính quyền phong kiến phương Bắc, vì vậy, chỉ có một cách hiểu đúng là ý thức phân biệt văn hóa hai miền Nam - Bắc và chống đồng hoá.
Tục nhuộm răng có từ thuở xa xưa, nhưng chỉ thông dụng ở miền Trung và miền Bắc Việt Nam. Khi lên mười ba, mười bốn tuổi, mọi người đều thích nhuộm răng. Việc nhuộm răng trải qua nhiều giai đoạn, kéo dài từ một đến hai tuần và những thứ thuốc gia truyền thường được xem như một thứ gia bảo, người ngoài khó biết được công thức pha chế.
Ở nông thôn có người nhuộm răng gọi là "thầy", ông ta đi từ làng này sang làng khác để hành nghề. Ở Huế lại có các "bà thầy" nhuộm răng thường hành nghề cố định trong các chợ, như chợ Đông Ba có đến 5, 6 người hành nghề này. Họ có một cái sạp ngay giữa chợ, các chợ nhỏ như chợ Bến Ngự, chợ Bao Vinh, chợ An Cựu cũng có một đến hai "bà thầy" nhuộm răng.
Ở kinh đô Huế có bà thầy vừa hành nghề nhuộm răng vừa sản xuất thuốc nhuộm, thuốc xỉa... Muốn nhuộm răng phải ghi tên và đặt tiền cọc trước, có khi mất cả hàng tháng mới được nhuộm.
Người Việt chỉ nhuộm răng khi đã thay răng sữa hoàn toàn, vì đây là thời điểm răng còn non, dễ thấm thuốc vào men răng. Thuốc dùng để nhuộm bao gồm các thành phần chủ yếu như: Bột nhựa cánh kiến, nước cốt chanh, phèn đen, nhựa gáo dừa.
Nhuộm răng trước hết phải vệ sinh răng sạch, sáng bóng. Ba ngày trước khi nhuộm phải đánh, xỉa răng bằng vỏ cau khô với than bột trộn muối. Một ngày trước khi nhuộm phải ngậm chanh, súc miệng bằng rượu trắng, để men răng “mềm”. Thời gian này là một thử thách lớn vì nước cốt chanh sẽ làm sưng hết các bộ phận của miệng và răng. Thuốc nhuộm được pha từ bột cánh kiến và nước cốt chanh tạo thành một hỗn hợp sệt, sau đó trét (trát) lên lá dừa hoặc cau rồi áp lên răng. Công đoạn này thường được thực hiện sau buổi cơm chiều, nửa đêm sẽ được thay bằng một miếng khác, tương tự. Hôm sau người “thầy” nhuộm sẽ gỡ miếng nhựa sơn ra, người nhuộm phải súc sạch miệng bằng nước mắm hoặc nước dưa chua. Trong khi đắp sơn tuyệt đối không được mở miệng, tuần tự việc thay lớp thuốc nhuộm diễn ra 2 lần trong ngày, kéo dài trong 7 ngày liên tục. Trong những ngày này, người được nhuộm chỉ nuốt trọng (chửng) thức ăn.
Khi răng có màu đỏ giống màu cánh kiến thì được bôi một hỗn hợp dung dịch khác bao gồm: phèn đen và nhựa cánh kiến, được phết trong vòng 2 ngày. Cuối cùng là cố định răng bằng nhựa gáo dừa, tác dụng của loại nhựa này nhằm tạo lớp men phủ trên thân răng. Kết quả của quá trình công phu này là một hàng răng đen đều như những hạt mãng cầu (na) hay còn gọi là răng hạt huyền. Để giữ răng luôn đen bóng, hàng năm phải phủ lên lớp như gáo dừa này.
Nếu được bảo vệ cẩn thận răng nhuộm có thể giữ màu đen bóng 20, 30 năm. Muốn cho hàm răng lúc nào cũng đen nhánh thì độ một năm lại nhuộm bồi thêm một lớp. Răng không được chăm sóc sẽ bị phai màu, loang lổ gọi là "răng cải mả", trông không đẹp.
Vào đầu thế kỷ XX, khi thực dân phương Tây đến nước ta, trào lưu nhuộm răng đen ngày càng giảm và mất đi. Ngày nay, hiếm gặp những thiếu nữ răng đen trên đường phố, có chăng là những cụ già ở vùng Bắc Bộ.
Tục nhuộm răng, ăn trầu là những phong tục truyền thống của nước ta, mặc dù hiện nay không còn tồn tại nhưng tục nhuộm răng là một trong những giá trị văn hóa dân tộc cần được trân trọng và lưu giữ.
>>> Xem thêm:
Đạo vợ chồng trong phong tục Việt Nam